Giọt nước mắt của CHÍ PHÈO và A PHỦ
Có phải đó chăng: "Giọt nước mắt đàn ông không rơi từng giọt." Ở một người đàn ông, nội tâm của họ sẽ khác rất nhiều so với người phụ nữ. Hằng ngày họ vẫn mạnh mẽ lắm, trái tim họ cũng sắt đá, cứng cỏi chẳng khác gì núi sông hùng vĩ. Nhưng đá có thể bị nước mài mòn, tâm hồn của họ dù có bản lĩnh hơn người phụ nữ đến đâu cũng có lúc phải rơi nước mắt, đó là giây phút họ vô tình bị đau thương kéo lọt vào cái hố sâu không đáy của đời sống chật chọi không chốn dung thân, vào bi kịch tinh thần và nỗi đau thân xác, nỗi đau về thời thế và thân phận. Nhà văn Nam Cao cũng là một nhà văn nam, ông đã dựng nên rất nhiều nhân vật nông dân trí thức, đặc biệt trong đó là nhân vật Chí Phèo với cái rất cay của đời qua tiếng khóc đầy tội ác của xã hội. Cùng viết về tiếng khóc ấy còn có cả Tô Hoài, ông già văn chương am hiểu văn hóa vùng núi nên đã dựng nên A - Phủ một nhân vật oai dũng, nhưng rồi cũng câm hận đến phát khóc trước sự đời oan trái. Mặc dù cùng viết về tiếng khóc, nhưng chắc chắn rằng, ở mỗi tiếng khóc sẽ là một hoàn cảnh khác nhau, những số phận con người, những người đàn ông đau khổ và bế tắc được thể hiện qua hai phong cách nghệ thuật vô cùng đặc sắc.
Có ở Nam Cao một cái rất nam nhi và lạnh lùng, khi viết văn, ông luôn cố đẩy nhân vật của mình ra xã thật xa rồi lại kéo họ về bằng một trái tim ấm áp. Nhân vật Chí Phèo cũng được ra đời từ tâm niệm ấm áp và rất đáng mến ấy. Ra đời năm 1936, trước Cách mạng tháng Tám, là cái gì đó cùng quẩn bế tắc của những người nông dân trong xã hội. Tiêu biểu là cái Làng Vũ Đại ngày ấy và anh Chí Phèo và rồi là giai cấp thống trị: Bá Kiến. Nhưng chí Phèo là trung tâm, là cái mà châm ngòi cho phát ngôn của Nam Cao: "Một tác phẩm thật sự giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, nó phải là một tác phẩm viết chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ vừa đau đớn lại vừa phấn khởi..." Đấy chính là cái đau đớn ấy mà nhân vật Chí Phèo lại hiện lên một cách bi thảm và khốn cùng. Còn ở A Phủ là bi kịch của người con trai bị thế lực phong kiến miền núi đài đọa. Bài thơ ra đời năm 1953, do vốn hiểu biết và gắn bó với người dân tộc, mà ở tác phẩm là cộng đồng dân tộc H-Mông, với những tục lệ bắt vợ, nhưng ở giai đoạn đó thế lực phong kiến miền núi là thực trạng xót xa nhất. Nên nhà văn Tô Hoài mới rung lên tiếng nói. Dùng giọt nước mắt là chi tiết tiêu biểu cho thân phận người nông dân. Khóc là khi người ta vui đến vỡ òa, đến nổi không thể nói thành lời, hay do quá trái ngang và khốn khổ. Cả hai nhân vật đều thuộc cảm xúc thứ hai. Nên nó mới đau đớn, xé lòng và có giá trị nghệ thuật cao.
Các tác phẩm văn học có hơn nhau hay không là do chi tiết nghệ thuật mà nhà văn sử dụng để lột tả thực trạng mà mình muốn gửi gắm. Ta từng bắt gặp ở "Hai đứa trẻ" chi tiết đoàn tàu đêm khuya thoáng vụt qua phố huyện với đủ thứ âm thanh ánh sáng, từng thấy ở "Vợ nhặt" một bát cháo hành ấm nồng cả con tim. Và giờ đây là chi tiết giọt nước mắt, một chi tiết nghệ thuật sâu sắc ở bề diễn tả và hình thức thể hiện được hai nhà văn vận dụng vắt hết văn từ của mình để nói cho được cái gì đặc sắc ẩn sau những giọt nước mắt tưởng chừng vô giá trị ấy.
Với Chí Phèo, cuộc đời là cả trái đắng xót xa, câm phẫn, đáng lẽ ra một đứa bé chào đón cuộc đời trong hơi ấm của người mẹ, nâng niu trên vòng tay của bố, thay vào đó, Chí Phèo là một đứa trẻ cơ nhỡ, bị vứt bỏ trong tư thế đáng thương "trần truồng, xám ngắt" nơi lò gạch cũ bỏ hoang. Rồi lớn lên trong sự nuôi nấng của dân làng. Tuy mồ côi mẹ, nhưng Chí Phèo không phải là một đứa ăn chơi quậy phá mà là anh canh điền hiền lành, cũng có ước mơ nhỏ nhoi là có một gia đình, "chồng cuốc mướn cài thuê, vợ dệt vải", "dư giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Nhưng rồi tất cả đã hóa tan thành bọt nước, từ khi Chí làm canh Điền cho bà ba. Bị lọt vào đôi mắt đen tối của bà ba, anh bị đổ oan và vào tù, đến khi ra tù thì bộ dạng và tính tình cũng thay đổi. Dường như đã bị cướp đoạt cả nhân hình lẫn nhân tính. Lưu lạc giữa cuộc đời mà ai cũng sợ anh như sợ cọp, niềm đau đó chỉ có rượu mới chôn vùi được từ ngày này qua tháng khác. Cho đến một ngày, một ngày mà thị Nở đến bên đời anh như một điều kì lạ. Kì lạ ở chỗ, hai con người xa lạ bỗng nhiên gặp nhau, thay đổi cuộc đời của nhau, Thị Nở đã làm cho Chí nhận ra âm thanh của cuộc sống vẫn luôn vẫy gọi mình "tiếng người đi chợ", "anh thuyền chày gõ mái chèo đuổi cá", làm cho Chí ngạc nhiên, các ngạc nhiên vừa dễ thương lại vừa rất người. "Hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt", đó phải chăng chính là giọt nước mắt thức tĩnh, ý thức được số phận của bản thân "hắn đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời" rồi hắn sẽ đơn độc và bọ ghẻ lạnh. Nhưng hôm nay lại khác, hôm nay Chí có thị Nở là người đàn bà đầu tiên đến bên đời Chí với một sự săn sóc hơn cả những gì mà Chí đáng được nhận. Chỉ "ươn ướt" thôi khi ngồi trước mặt thị Nở, vẫn có cái gì yếu lòng mà đầy nam tính. Chí Phèo đã tĩnh với cái bụng dạ trong như suối nguồn. Những ngày tháng cùng khổ kia Chí đã dồn nén để hôm nay được khóc cho thỏa sức, cho quên đi hôm qua và hôm nay phải sống đúng với ước mơ và món quà mà cuộc sống đã ban cho anh lúc bế tắc nhất, đó là: Thị Nở.
Nhưng ai nào ngờ, như một cú trời ván, thị Nở rời xa Chí như chưa bao giờ anh biết trước. Dưới lời dèm pha chỉ trích của bà cô thị, khiến chiếc cầu nối cuối cùng giữa Chí và mọi người ngã ập xuống dòng nước, cuống trôi và xoáy tít, kêu gào và la hét như tiếng kêu bi phẫn của số kiếp con người. Vì đâu Chí phải gánh chịu điều đó? Nỗi đau quá lớn khiến Chí rơi vào tột cùng "ôm mặt khóc rưng rức" tiếng khóc như oán chỉ những định kiến xã hội xấu xa, mà những lời nói gây gắt của bà cô chính là đại diện: "ai đời lại đi lấy cái thằng không cha, cái thằng chỉ có cái nghề là rạch mặt ăn vạ". Cả một người xấu "ma chê quỷ hờn" như Thị Nở còn bỏ rơi Chí thì ai còn có thể vớt vác mà kéo anh về lại cuộc sống bình thường. Cuối cùng nghiệm ra tất cả đều là một kiếp đời hoang phí, với những tên địa chủ phong kiến rỉa rớm như Bá Kiến, cái chế độ hiểm ác như nhà tù thực dân và những đòn tâm lí của người dân làng Vũ Đại. Không có ánh sáng nào mở ra cả. Chỉ có âm thanh của tiếng khóc cứ vang bên tay, day dứt và ám ảnh. Đấy không phải chỉ là tiếng khóc của riêng Chí Phèo, mà trong muôn vàng nỗi oan ức ức của những người dân "thấp cổ bé họng" ấy, Chí Phèo là đại diện. Mặc dù khóc trong đau thương, khốn cùng, nhưng ta lại thấy những lúc ấy là lúc Chí Phèo càng tỉnh ra, tỉnh ra mới nhận ra được cái bẽ bàng và ngang trái. Cũng cùng ở chi tiết mang yếu tố thức tĩnh, Nam Cao đã để cho nhân vật trí thức Hộ khóc như "nước một quả chanh người ta bóp mạnh". "Hắn khóc. Hắn khóc như thể không ra tiếng khóc". Nam Cao đã dành rất nhiều tình cảm cho nhân vật của mình. Chi tiết ấy làm cho một anh chí Phèo chẳng khác nào một con người ngoài lề xã hội, nhưng ngầm chứa bên trong là cái cảm xúc sâu, rất sâu. Có như thế thì mới không là "người thợ khéo tay làm theo vài kiểu mẫu đưa cho" mà là sáng tạo và tìm tòi.
Còn với A Phủ, một chàng trai miền núi đồi, mạnh mẽ, hào hiệp chẳng khác nào Đam San trong sử thi "A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ, cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu." Nhưng A Phủ cũng thuộc lớp dân nghèo, không đủ tiền cưới vợ. Nhưng cuộc đời đen đuổi A Phủ đụng phải con của bọn địa chủ, bị bắt về làm trâu ngựa nhà nó. Một lần đi chăn bò A Phủ làm mất một con bò, rồi bị quan thống lí trói lại. Cũng lúc ấy, mỗi đêm Mị đều ra ngồi sưởi cho ấm, mà bắt gặp "Hai mắt A Phủ vừa mở. Một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại". Ai nào ngờ một người đàn ông gan bướng như Chí Phèo lại có thể khóc trong tư thế bị trói như thế. Nhưng đó cũng chính lí do, bởi nỗi đau quá lớn, thắt chặt lại. Vì A Phủ còn một tương lai rất dài, tuổi trẻ và những điều thú vị đang chờ đón, nhưng hiện tại A Phủ bị trói buộc bị bóc lột và không có sự tự do nào chừa lại. Anh là đại diện cho tinh thần của thanh niên miền núi, câm phẫn với cái tàn ác, gan dạ và luôn khát khao tự do.
Nhưng khác với giọt nước mắt bế tắc của Chí Phèo, giọt nước mắn lăn tròn trên hõm má của A Phủ lại nhận được sự đồng cảm thông từ Mị. Nhìn A Phủ khóc Mị lại nhớ về "đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không biết lau đi được" Từ cái lạnh lùng băng giá, giọt nước mắt của A Phủ dường như rất ấm, ấm đến mức làm tan chảy đám băng vô hồn kia trong lòng Mị. Từ nỗi thương mình, Mị chuyển sang thương người với một sự cảm thông rất chân thành đối với người cùng khổ. Mị có chết ở đây cũng là điều hiển nhiên, nhưng "người kia việc gì phải chết", câu nói ấy đã đưa đến hành động quả quyết, tháo dây trói cho A Phủ giải thoát cuộc đời nô lệ của cả hai con người. Với một tinh thần yêu cuộc sống rất mãnh liệt. Giọt nước mắt nằm trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" chỉ là một chi tiết nhỏ thôi, nhưng lại góp phần sáng bật tư tưởng cũng không ít. Chính vì thế Tô Hoài là nhà thơ giàu kinh nghiệm, một lối viết rất chuyên nghiệp và tư duy.
Nếu so sánh giọt nước mắt của hai nhân vật, thật ra nó càng tôn vinh lên nét hay và khám mới cho mỗi hàm ý chứ chẳng khập khiển tí nào. Đầu tiên, ở mặt tích cực, tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" có phần nhỉn hơn, bởi do thời điểm sáng tác là yếu tố tác động, Tô Hoài sáng tác ra tác phẩm này năm 1953, ở thời điểm đó nhà văn đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng, đã tin vào một điểm sáng cuối cùng cho hai nhân vật kết lại, nên giọt nước mắt ấy, góp phần mở ra một tương lai rất sáng. Còn nhà văn Nam Cao viết truyện ngắn "Chí Phèo" trước Cách mạng tháng Tám, nên có phần khép và bế tắc hơn. Chí Phèo khóc và rồi kết kiễu cuộc đời mình, tức là ôm đau thương chứ không đủ sức bước tiếp. Mặt khác hai giọt nước mắt này lại có giá trị thức tĩnh, phản ánh thực trạng xã hội. Và qua cách thể hiện ta lại thấy được hai phong cách sáng tác hoàn nổi bật và mang những nét riêng. Nam Cao thì sử dụng ngôn từ dân giã miền Bắc, có phần đả kích, xây dựng nhân vật rất điển hình, ngồi bút lạnh lùng, đanh chua mà cũng đầy nhân hậu. Còn Tô Hoài dường như có phần nhẹ nhàng hơn, nhưng của rất trữ tình ngồi bút ấy giàu tình cảm và lạc quan, như những điều mà ta từng thấy trước đó ở "Dế mèn phiêu lưu kí", một tâm hồn trẻ thơ và trong sáng.
M. Gorki từng nói: "Văn học là nhân học", quả thật chẳng bao giờ sai. Qua tiếng khóc ta thấy được rằng, văn học rất nhân văn và rất hiện thực đời sống. Trong cuộc đời, khi đau buồn chúng ta sẽ khóc, nhân vật trong văn học cũng thế thôi, họ đau đớn nên mới khóc. Nhưng cũng có khi khóc ra làm cho họ hạnh phúc và vơi đi nỗi sầu. Thế nên ta mới thấy được hia nhà văn hiện thực của văn học Việt Nam. Tô Hoài với "Vợ chồng A Phủ", Nam Cao với "Chí Phèo" họ đã khiến cho độc giả phải ám ảnh mỗi khi nhắc nhớ về hình ảnh khóc thương của Chí Phèo và A Phủ. Hai tác phẩm ấy chính là một giá trị, chi tiết giọt nước mắt cũng là một thứ đáng chân quý. Và những giá trị ấy tự biết cách khẳng định mình, không để cho quy luật sinh tồn đào thải.
Có ở Nam Cao một cái rất nam nhi và lạnh lùng, khi viết văn, ông luôn cố đẩy nhân vật của mình ra xã thật xa rồi lại kéo họ về bằng một trái tim ấm áp. Nhân vật Chí Phèo cũng được ra đời từ tâm niệm ấm áp và rất đáng mến ấy. Ra đời năm 1936, trước Cách mạng tháng Tám, là cái gì đó cùng quẩn bế tắc của những người nông dân trong xã hội. Tiêu biểu là cái Làng Vũ Đại ngày ấy và anh Chí Phèo và rồi là giai cấp thống trị: Bá Kiến. Nhưng chí Phèo là trung tâm, là cái mà châm ngòi cho phát ngôn của Nam Cao: "Một tác phẩm thật sự giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, nó phải là một tác phẩm viết chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ vừa đau đớn lại vừa phấn khởi..." Đấy chính là cái đau đớn ấy mà nhân vật Chí Phèo lại hiện lên một cách bi thảm và khốn cùng. Còn ở A Phủ là bi kịch của người con trai bị thế lực phong kiến miền núi đài đọa. Bài thơ ra đời năm 1953, do vốn hiểu biết và gắn bó với người dân tộc, mà ở tác phẩm là cộng đồng dân tộc H-Mông, với những tục lệ bắt vợ, nhưng ở giai đoạn đó thế lực phong kiến miền núi là thực trạng xót xa nhất. Nên nhà văn Tô Hoài mới rung lên tiếng nói. Dùng giọt nước mắt là chi tiết tiêu biểu cho thân phận người nông dân. Khóc là khi người ta vui đến vỡ òa, đến nổi không thể nói thành lời, hay do quá trái ngang và khốn khổ. Cả hai nhân vật đều thuộc cảm xúc thứ hai. Nên nó mới đau đớn, xé lòng và có giá trị nghệ thuật cao.
Các tác phẩm văn học có hơn nhau hay không là do chi tiết nghệ thuật mà nhà văn sử dụng để lột tả thực trạng mà mình muốn gửi gắm. Ta từng bắt gặp ở "Hai đứa trẻ" chi tiết đoàn tàu đêm khuya thoáng vụt qua phố huyện với đủ thứ âm thanh ánh sáng, từng thấy ở "Vợ nhặt" một bát cháo hành ấm nồng cả con tim. Và giờ đây là chi tiết giọt nước mắt, một chi tiết nghệ thuật sâu sắc ở bề diễn tả và hình thức thể hiện được hai nhà văn vận dụng vắt hết văn từ của mình để nói cho được cái gì đặc sắc ẩn sau những giọt nước mắt tưởng chừng vô giá trị ấy.
Với Chí Phèo, cuộc đời là cả trái đắng xót xa, câm phẫn, đáng lẽ ra một đứa bé chào đón cuộc đời trong hơi ấm của người mẹ, nâng niu trên vòng tay của bố, thay vào đó, Chí Phèo là một đứa trẻ cơ nhỡ, bị vứt bỏ trong tư thế đáng thương "trần truồng, xám ngắt" nơi lò gạch cũ bỏ hoang. Rồi lớn lên trong sự nuôi nấng của dân làng. Tuy mồ côi mẹ, nhưng Chí Phèo không phải là một đứa ăn chơi quậy phá mà là anh canh điền hiền lành, cũng có ước mơ nhỏ nhoi là có một gia đình, "chồng cuốc mướn cài thuê, vợ dệt vải", "dư giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Nhưng rồi tất cả đã hóa tan thành bọt nước, từ khi Chí làm canh Điền cho bà ba. Bị lọt vào đôi mắt đen tối của bà ba, anh bị đổ oan và vào tù, đến khi ra tù thì bộ dạng và tính tình cũng thay đổi. Dường như đã bị cướp đoạt cả nhân hình lẫn nhân tính. Lưu lạc giữa cuộc đời mà ai cũng sợ anh như sợ cọp, niềm đau đó chỉ có rượu mới chôn vùi được từ ngày này qua tháng khác. Cho đến một ngày, một ngày mà thị Nở đến bên đời anh như một điều kì lạ. Kì lạ ở chỗ, hai con người xa lạ bỗng nhiên gặp nhau, thay đổi cuộc đời của nhau, Thị Nở đã làm cho Chí nhận ra âm thanh của cuộc sống vẫn luôn vẫy gọi mình "tiếng người đi chợ", "anh thuyền chày gõ mái chèo đuổi cá", làm cho Chí ngạc nhiên, các ngạc nhiên vừa dễ thương lại vừa rất người. "Hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt", đó phải chăng chính là giọt nước mắt thức tĩnh, ý thức được số phận của bản thân "hắn đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời" rồi hắn sẽ đơn độc và bọ ghẻ lạnh. Nhưng hôm nay lại khác, hôm nay Chí có thị Nở là người đàn bà đầu tiên đến bên đời Chí với một sự săn sóc hơn cả những gì mà Chí đáng được nhận. Chỉ "ươn ướt" thôi khi ngồi trước mặt thị Nở, vẫn có cái gì yếu lòng mà đầy nam tính. Chí Phèo đã tĩnh với cái bụng dạ trong như suối nguồn. Những ngày tháng cùng khổ kia Chí đã dồn nén để hôm nay được khóc cho thỏa sức, cho quên đi hôm qua và hôm nay phải sống đúng với ước mơ và món quà mà cuộc sống đã ban cho anh lúc bế tắc nhất, đó là: Thị Nở.
Nhưng ai nào ngờ, như một cú trời ván, thị Nở rời xa Chí như chưa bao giờ anh biết trước. Dưới lời dèm pha chỉ trích của bà cô thị, khiến chiếc cầu nối cuối cùng giữa Chí và mọi người ngã ập xuống dòng nước, cuống trôi và xoáy tít, kêu gào và la hét như tiếng kêu bi phẫn của số kiếp con người. Vì đâu Chí phải gánh chịu điều đó? Nỗi đau quá lớn khiến Chí rơi vào tột cùng "ôm mặt khóc rưng rức" tiếng khóc như oán chỉ những định kiến xã hội xấu xa, mà những lời nói gây gắt của bà cô chính là đại diện: "ai đời lại đi lấy cái thằng không cha, cái thằng chỉ có cái nghề là rạch mặt ăn vạ". Cả một người xấu "ma chê quỷ hờn" như Thị Nở còn bỏ rơi Chí thì ai còn có thể vớt vác mà kéo anh về lại cuộc sống bình thường. Cuối cùng nghiệm ra tất cả đều là một kiếp đời hoang phí, với những tên địa chủ phong kiến rỉa rớm như Bá Kiến, cái chế độ hiểm ác như nhà tù thực dân và những đòn tâm lí của người dân làng Vũ Đại. Không có ánh sáng nào mở ra cả. Chỉ có âm thanh của tiếng khóc cứ vang bên tay, day dứt và ám ảnh. Đấy không phải chỉ là tiếng khóc của riêng Chí Phèo, mà trong muôn vàng nỗi oan ức ức của những người dân "thấp cổ bé họng" ấy, Chí Phèo là đại diện. Mặc dù khóc trong đau thương, khốn cùng, nhưng ta lại thấy những lúc ấy là lúc Chí Phèo càng tỉnh ra, tỉnh ra mới nhận ra được cái bẽ bàng và ngang trái. Cũng cùng ở chi tiết mang yếu tố thức tĩnh, Nam Cao đã để cho nhân vật trí thức Hộ khóc như "nước một quả chanh người ta bóp mạnh". "Hắn khóc. Hắn khóc như thể không ra tiếng khóc". Nam Cao đã dành rất nhiều tình cảm cho nhân vật của mình. Chi tiết ấy làm cho một anh chí Phèo chẳng khác nào một con người ngoài lề xã hội, nhưng ngầm chứa bên trong là cái cảm xúc sâu, rất sâu. Có như thế thì mới không là "người thợ khéo tay làm theo vài kiểu mẫu đưa cho" mà là sáng tạo và tìm tòi.
Còn với A Phủ, một chàng trai miền núi đồi, mạnh mẽ, hào hiệp chẳng khác nào Đam San trong sử thi "A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ, cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu." Nhưng A Phủ cũng thuộc lớp dân nghèo, không đủ tiền cưới vợ. Nhưng cuộc đời đen đuổi A Phủ đụng phải con của bọn địa chủ, bị bắt về làm trâu ngựa nhà nó. Một lần đi chăn bò A Phủ làm mất một con bò, rồi bị quan thống lí trói lại. Cũng lúc ấy, mỗi đêm Mị đều ra ngồi sưởi cho ấm, mà bắt gặp "Hai mắt A Phủ vừa mở. Một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại". Ai nào ngờ một người đàn ông gan bướng như Chí Phèo lại có thể khóc trong tư thế bị trói như thế. Nhưng đó cũng chính lí do, bởi nỗi đau quá lớn, thắt chặt lại. Vì A Phủ còn một tương lai rất dài, tuổi trẻ và những điều thú vị đang chờ đón, nhưng hiện tại A Phủ bị trói buộc bị bóc lột và không có sự tự do nào chừa lại. Anh là đại diện cho tinh thần của thanh niên miền núi, câm phẫn với cái tàn ác, gan dạ và luôn khát khao tự do.
Nhưng khác với giọt nước mắt bế tắc của Chí Phèo, giọt nước mắn lăn tròn trên hõm má của A Phủ lại nhận được sự đồng cảm thông từ Mị. Nhìn A Phủ khóc Mị lại nhớ về "đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không biết lau đi được" Từ cái lạnh lùng băng giá, giọt nước mắt của A Phủ dường như rất ấm, ấm đến mức làm tan chảy đám băng vô hồn kia trong lòng Mị. Từ nỗi thương mình, Mị chuyển sang thương người với một sự cảm thông rất chân thành đối với người cùng khổ. Mị có chết ở đây cũng là điều hiển nhiên, nhưng "người kia việc gì phải chết", câu nói ấy đã đưa đến hành động quả quyết, tháo dây trói cho A Phủ giải thoát cuộc đời nô lệ của cả hai con người. Với một tinh thần yêu cuộc sống rất mãnh liệt. Giọt nước mắt nằm trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" chỉ là một chi tiết nhỏ thôi, nhưng lại góp phần sáng bật tư tưởng cũng không ít. Chính vì thế Tô Hoài là nhà thơ giàu kinh nghiệm, một lối viết rất chuyên nghiệp và tư duy.
Nếu so sánh giọt nước mắt của hai nhân vật, thật ra nó càng tôn vinh lên nét hay và khám mới cho mỗi hàm ý chứ chẳng khập khiển tí nào. Đầu tiên, ở mặt tích cực, tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" có phần nhỉn hơn, bởi do thời điểm sáng tác là yếu tố tác động, Tô Hoài sáng tác ra tác phẩm này năm 1953, ở thời điểm đó nhà văn đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng, đã tin vào một điểm sáng cuối cùng cho hai nhân vật kết lại, nên giọt nước mắt ấy, góp phần mở ra một tương lai rất sáng. Còn nhà văn Nam Cao viết truyện ngắn "Chí Phèo" trước Cách mạng tháng Tám, nên có phần khép và bế tắc hơn. Chí Phèo khóc và rồi kết kiễu cuộc đời mình, tức là ôm đau thương chứ không đủ sức bước tiếp. Mặt khác hai giọt nước mắt này lại có giá trị thức tĩnh, phản ánh thực trạng xã hội. Và qua cách thể hiện ta lại thấy được hai phong cách sáng tác hoàn nổi bật và mang những nét riêng. Nam Cao thì sử dụng ngôn từ dân giã miền Bắc, có phần đả kích, xây dựng nhân vật rất điển hình, ngồi bút lạnh lùng, đanh chua mà cũng đầy nhân hậu. Còn Tô Hoài dường như có phần nhẹ nhàng hơn, nhưng của rất trữ tình ngồi bút ấy giàu tình cảm và lạc quan, như những điều mà ta từng thấy trước đó ở "Dế mèn phiêu lưu kí", một tâm hồn trẻ thơ và trong sáng.
M. Gorki từng nói: "Văn học là nhân học", quả thật chẳng bao giờ sai. Qua tiếng khóc ta thấy được rằng, văn học rất nhân văn và rất hiện thực đời sống. Trong cuộc đời, khi đau buồn chúng ta sẽ khóc, nhân vật trong văn học cũng thế thôi, họ đau đớn nên mới khóc. Nhưng cũng có khi khóc ra làm cho họ hạnh phúc và vơi đi nỗi sầu. Thế nên ta mới thấy được hia nhà văn hiện thực của văn học Việt Nam. Tô Hoài với "Vợ chồng A Phủ", Nam Cao với "Chí Phèo" họ đã khiến cho độc giả phải ám ảnh mỗi khi nhắc nhớ về hình ảnh khóc thương của Chí Phèo và A Phủ. Hai tác phẩm ấy chính là một giá trị, chi tiết giọt nước mắt cũng là một thứ đáng chân quý. Và những giá trị ấy tự biết cách khẳng định mình, không để cho quy luật sinh tồn đào thải.
Nhận xét
Đăng nhận xét